Mỗi bài thơ "haiku" (phát âm lối Hán Việt là "bài cú") của người Nhật Bản là một tiểu vũ trụ thu gọn trong vẻn vẹn 17 âm tiết. Trong cái hạn ...
Tượng Phật ở Nhật – ảnh: Nick Út
Đàm Trung Pháp
Mỗi bài thơ "haiku" (phát âm lối Hán Việt là
"bài cú") của người Nhật Bản là một tiểu vũ trụ thu gọn trong vẻn vẹn
17 âm tiết. Trong cái hạn hẹp tối đa ấy, nhà thơ diễn tả cảm nghĩ của
mình trước thiên nhiên và cho người đọc thoáng thấy một hình ảnh vĩnh
cửu phát hiện qua một cảnh trí thông thường chóng phai mờ. Về điểm này thì
hình như mỗi nhà thơ lớn, ở phương trời nào cũng vậy, đều có đôi chút “tâm hồn
haiku” – như khi William Blake đã thấy cả vũ trụ trong một hạt cát, cả thiên đường
trong một đóa hoa dại (“to see a world in a grain of sand, a heaven in a wild
flower”), hoặc như khi Đinh Hùng mới chỉ nhìn vào đôi mắt lưu ly của Kỳ Nữ mà đã
“thấy cả bóng một vầng đông thuở trước, cả con đường sao mọc lúc ta đi”!
Tổng số 17 âm tiết của một bài haiku được thu xếp thành 3
dòng thơ, thông thường với 5 âm tiết cho dòng thứ nhất, 7 âm tiết cho dòng thứ
hai, và 5 âm tiết cho dòng thứ ba. Ba dòng thơ ấy không bắt buộc phải vần với
nhau và cũng không cần những dấu chấm câu.
Thi bá Matsuo Basho thuộc thế kỷ XVII là người đã nâng
thơ haiku lên hàng nghệ thuật siêu đẳng, và cũng từ đó haiku trở nên thể thơ
thông dụng nhất trong văn chương Nhật Bản. Nghệ thuật siêu đẳng này gắt gao đòi
hỏi nhà thơ phải diễn tả rất nhiều, gợi ý tối đa trong một hình thức vắn tắt,
cô đọng nhất. Mỗi bài haiku phải gây nên một ấn tượng trọn vẹn bằng cách đặt
vào bên cạnh yếu tố thiên nhiên một câu gợi ý về một mùa trong năm hoặc một cảm
xúc mạnh. Bài thơ dưới đây của Basho dùng hai yếu tố thiên nhiên (con đường
vắng vẻ, lúc xẩm tối mùa thu) để làm bối cảnh cho một cảm xúc mạnh (sự hiu
quạnh tột cùng):
kono michi ya
yuku hito nashi ni
aki no kure
con đường ấy
không người qua lại
trời xẩm tối mùa thu
Vì nhiều chữ Nhật Bản ở dạng đa âm tiết (thí dụ như danh từ
shizukesa có nghĩa là sự thanh tịnh gồm 4 âm tiết), khi bị ghép vào mô
thức haiku tiết chế, nhiều khi chỉ một hai chữ thôi đã chiếm hết cả dòng thơ
rồi. Cho nên cả bài haiku chỉ là vài ba nét chấm phá để gợi cảnh, gợi tình,
hoàn toàn "ý tại ngôn ngoại."
Ba thi nhân haiku hàng đầu trong văn học Nhật Bản là Matsuo
Basho (1644-1694), Yosa Buson (1716-1784), và Kobayashi Issa (1763-1827). Basho
lẫy lừng nhất, thường được ví như một William Wordsworth, vì ông cũng đã suốt đời
đi tìm sự cảm thông với thiên nhiên. Thơ Basho phảng phất cốt cách tiên
của Lý Bạch và nhuộm mầu Ly tao của Đỗ Phủ. Buson còn là một nhà danh
họa; thơ ông rất đẹp nét, trữ tình, và nhậy cảm. Issa mồ côi mẹ từ thuở ấu thơ
và bị mẹ ghẻ hắt hủi; từ năm 14 tuổi đã tự lập và nghiên cứu haiku. Thơ
Issa bình dị và thường nhắc đến các sinh vật nho nhỏ như chim sẻ, dế, bươm
bướm với nhiều thân thương trìu mến.
Haiku là thơ vịnh thiên nhiên qua bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Chúng ta hãy xem ba thi nhân nêu trên chấm phá cảnh trí thiên nhiên như thế nào
qua các bài haiku lừng danh của họ, được trích dẫn bằng romaji là lối viết
tiếng Nhật rất dễ phát âm, dành cho những người quen với mẫu tự la-tinh, gồm cả
người Việt chúng ta.
Ưu điểm của romaji là nó cho người đọc thấy
rõ được các từ ngữ tượng thanh cũng như sự hòa hợp các âm tương
tự trong các dòng thơ. Trong bài viết này, các dòng chuyển sang tiếng Việt
cố gắng giữ nội dung nguyên tác, mặc dù đôi khi phải thay đổi thứ tự ý nghĩa
các câu để nghe cho thuận tai người Việt, và hoàn toàn không theo mô thức tiết
chế của haiku.
Vì sự ngắn gọn tối đa, thi nhân haiku không thể sử dụng cú
pháp cầu kỳ -- một lợi điểm cho người chưa thạo tiếng Nhật, nhưng
lại thích đọc thơ haiku như bản thân tôi. Quả thực, chỉ cần một kiến thức
căn bản về cú pháp Nhật ngữ và một cuốn tự điển Nhật dùng lối viết romaji dễ
tra cứu mục từ sắp xếp theo thứ tự a, b, c (thí dụ như cuốn Kodansha’s
Romanized Japanese-English Dictionary 666 trang xuất bản tại Tokyo năm 1993 mà
tôi sử dụng), là có thể thưởng thức thơ haiku. Chính cuốn tự điển này đã giúp
tôi "hiểu" ý nghĩa bài thơ của Basho viết về tiếng ve kêu (được
trích dẫn đầu tiên dưới đây), trong đó có các danh từ shizukesa (sự thanh
tịnh), iwa (tảng đá lớn), semi (ve sầu), koe (giọng), và động từ shimiru (thấm
vào). Kiến thức cú pháp căn bản cho tôi biết rằng giới từ ni (trong) phải đứng
sau danh từ trong một đoản ngữ với giới từ đóng vai chủ động
(prepositional phrase) –ngược hẳn với thói quen trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Vì vậy đoản ngữ "trong tảng đá lớn" khi dịch sang tiếng Nhật sẽ thành
"tảng đá lớn trong" (iwa ni). Xin nói thêm, giới từ no
(của) trong tiếng Nhật được dùng như chữ "chi" trong tiếng
Tàu hoặc "sở hữu cách -'s" trong tiếng Anh – semi no koe do đó phải
hiểu là "thiền chi thanh" hoặc "the cicada's voice."
Xin bắt đầu bằng mùa Hạ, khi mà Basho chỉ nghe thấy tiếng ve
sầu vang vọng vào kẽ đá. Thi nhân ghi lại cảm giác rất nhiều thiền tính ấy như
sau :
shizukesa ya
iwa ni shimi-iru
semi no koe
thanh tịnh và
thấm vào non núi
tiếng ve ca
Khi vui hưởng đời, mấy ai thấy chết chóc đang chờ. Những
con ve sầu của Basho cũng thế -- chúng có biết đâu là cuộc sống của chúng sắp
tàn:
yagate shinu
keshiki wa mieru
semi no koe
ve sầu ca hát
chẳng mảy may hay biết
chết đã gần kề
Nhân sinh vô thường, có khác chi đám mây trôi luôn thay hình
đổi dạng, qua thi bút huyền diệu Issa:
oni to nari
hotoke to naru ya
doyoo-gumo
đám mây trong ngày khổ ải
từ hình quỷ
chuyển sang hình Phật
Hoa anh đào ở Tokyo – ảnh: Nick Út
Cỏ mùa hạ tốt tươi thật đấy, nhưng Basho cũng thấy dưới lớp
cỏ ấy là mồ chôn những ước mơ hiển hách của biết bao đấng trượng phu:
natsu - kusa ya
tsuwa-mono-domo ga
yume no ato
cỏ mùa hạ
đang chôn vùi
bao giấc mơ chiến thắng cố chinh nhân
Chỉ nhìn những trái ớt chín mọng trên cây, nhà thơ kiêm danh
họa Buson đã thấy cả một mùa Thu đang làm lộng lẫy thiên nhiên:
utsukushi ya
no-waki no ato no
toogarishi
Đẹp biết bao
những trái ớt đỏ tươi
sau trận thu phong
Người thường khi nghe tiếng dế rên rỉ đêm thu thì có lẽ chỉ
buồn thôi, nhưng thi sĩ Issa đa cảm đã vội nghĩ ngay đến ngày mình xuống mộ.
Hãy nghe nhà thơ cô đơn đó căn dặn người bạn nhỏ nhoi đôi lời:
ware shinaba
haka-mori to nare
kirigirisu
này chú dế
hãy làm người gác mộ
sau khi ta lìa đời
Bóng đêm dầy đặc, vài tia chớp, tiếng kêu xào xạc một con
chim đi tìm mồi, là mấy chấm phá kiệt xuất vẽ lên một đêm thu cô quạnh đến rùng
mình qua thần bút Basho:
inazuma ya
yami no kata yuku
goi no koe
vài tia chớp lập lòe
tiếng kêu con vạc ăn đêm
bay vào cõi tối
Và mùa Đông đã tới, với băng giá ngoài trời và băng giá
trong lòng thi nhân. Lúc ấy Buson ước ao đi ở ẩn trong núi:
fuyu-gomori
kokoro no oku no
yoshino yama
mùa Đông ẩn dật
ngọn núi yoshino
chiếm trọn tâm tư
Basho ít khi dừng bước giang hồ. Tuy vậy, ông ngao ngán
trạng huống ốm đau khi chu du mùa Đông qua những vùng hẻo lánh:
tabi ni yande
yume wa kare-no o
kake-meguru
lữ hành trong bệnh hoạn
chờn vờn bóng ma
trên cánh đồng hoang
Và rồi, sau chuỗi ngày mùa Đông giá lạnh, mùa
Xuân đã trở lại. Vì thiếu tình mẫu tử từ tấm bé, Issa rất trìu mến những
sinh vật nho nhỏ của mùa Xuân. Có lẽ khi vỗ về tinh thần chú ếch mảnh mai,
thi nhân cũng tự an ủi chính mình:
yase-gaeru
makeru na issa
kore ni ari
chú ếch èo uột
đừng bỏ cuộc nhé
issa đang an ủi chú đây
Mưa xuân khiến hoa cỏ tốt tươi, nhưng phũ phàng thay, dưới
làn mưa ấy cũng có một lá thư bị ai đó quăng đi để gió thổi
vô rừng, như Issa chứng kiến:
haru-same ya
yabu ni fukaruru
sute tegami
mưa xuân
lá thư vứt bỏ
gió cuốn vô rừng
Xuân là mùa của hạnh phúc, của tái sinh, nhưng Buson thấy
Xuân cũng là mùa để tàn sát sinh linh:
hi kururu ni
kiji utsu
haru no yama-be kana
hoàng hôn
tiếng bắn chim trĩ vang dội
triền núi mùa Xuân
Trong ánh xuân rực rỡ, Basho ước ao được tự
do, không vướng lụy hồng trần, như con sơn ca đang líu lo giữa thảm cỏ
xanh:
hara-naka ya
mono nimo tsukazu
naku hibari
giữa bãi cỏ
sơn ca líu lo
tự do, chẳng ưu phiền
------------------
Tài liệu tham khảo
Yasuda, K. (1957). The Japanese haiku. Tokyo: Tuttle.
Ueda, M. (1970). Matsuo Basho. Tokyo: Kodansha.
Miura, Y. (1991). Classic haiku. Tokyo: Tuttle.
Vance, T. (1993). Kodansha’s romanized Japanese-English
dictionary. Tokyo: Kodansha.
Viết bình luận đầu tiên
MỚI CẬP NHẬT



















ĐỌC THÊM
Sự thật gây sốc về Đường Tăng, nhân vật trong tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân
Trong truyện có nội dung là ai mà được ăn thi.t của Đường Tăng thì sẽ bất tử. Thực chất đã có nhân vật trong Tây Du Ký "ăn th.ịt ...
Phim ‘Super Mario Bros. Movie’ thâu hơn $1 tỷ mỹ kim toàn cầu
Chỉ chưa đầy một tháng, phim hoạt họa “The Super Mario Bros. Movie” của hãng Universal Studios đã đạt được một cột mốc quan trọng thứ hai, đó là vượt ...
Tiên nữ kiều diễm gốc Á thời AI
Chiêm ngững vẽ đẹp kiều diễm gốc Á Châu dước góc nhìn kỷ nghệ AI