Chuyến về Việt Nam lần này chỉ có mục đích vui chơi, tôi bèn đặt một chuyến đi mà công ty du lịch Tymes đặt tên là “Du ngoạn đồng ...
Nguyễn Linh Giang
Miền Tây nước ngọt, cây trái xanh tươi, vựa lúa của dân tộc, là nơi tôi muốn đến thăm nhiều lần nhưng chưa có dịp.
Chuyến về Việt Nam lần này chỉ có mục đích vui chơi, tôi bèn đặt một chuyến đi mà công ty du lịch Tymes đặt tên là “Du ngoạn đồng bằng sông Cửu Long”. Đi tour riêng chỉ có 2 vợ chồng với cô con gái lớn lần đầu về thăm quê hương của bố mẹ nó, nên chúng tôi thoải mái tối đa. Lại còn có tài xế và cô hướng dẫn viên riêng nữa.
Miền Tây trong ký ức của tôi là những con sông mênh mông bát ngát và những khóm lục bình trôi trên sông. Nước sông nhuộm mầu nâu vàng của đất phù sa, lăn tăn trông như mặt nồi “bông cỏ”, một thứ quà giống như thạch mà tôi thường ăn lúc nhỏ, khi chị bán hàng dùng chiếc muỗng nhỏ xúc bông cỏ lên, tạo thành những khoảng lõm tròn trên mặt . Tôi vốn sợ nước vì không biết bơi nên bước lên chiếc phà cũng phải lấy hết can đảm. Vậy mà hôm nay, tôi nào biết cả chuyến đi mình sẽ ngồi đò suốt, quả là ghét của nào trời trao của đó. Nhưng công ty đã sắp đặt mọi thứ sẵn sàng, tôi cũng đành nhắm mắt đưa chân, tự nhủ “thây kệ, sống chết có số”.
Xuống đò
Từ Sài Gòn, chúng tôi chỉ ngồi xe độ 1 tiếng, sau đó là xuống đò. Vùng này là vùng Cái Bè. Muốn xuống đò, chúng tôi ngồi xe vô trong xóm nhỏ, đi bộ một chút là tới bến, một căn nhà nho nhỏ có chỗ đậu đò. Xóm nhỏ này không khác chút gì những xóm Việt Nam khác nằm dọc theo sông, gồm những căn nhà san sát bên nhau, cả hai mặt đều là mặt bằng, một mặt quay ra con đường đất, mặt sau quay ra sông. Xóm coi bộ khang trang, với nhiều nhà xây bằng gạch. Một căn nhà nhỏ này đã được biến thành bến đò, có bán hàng lặt vặt, có ghế cho khách nghỉ chân, có cả võng nếu khách muốn nằm đong đưa.
Chẳng mấy chốc, chiếc đò của chúng tôi đã cặp bến. “Lái đò” là một người đàn bà tuổi trung niên, gương mặt sạm nắng, mặc bộ đồ bà ba cũ kỹ. Bà lăng xăng cặp đò vào, dọn chỗ cho chúng tôi bước xuống. Đò khá lớn, có tới 8 chỗ ngồi, chạy bằng máy đuôi tôm. Chỗ ngồi không được tươm tất cho lắm, nhưng so với những con đò trong trí tưởng tượng của tôi, con đò này có thể nói là thuộc hạng khá sang.
Nhìn chiếc đò nhỏ, tôi hơi ngại ngùng nhưng cũng đành bước xuống một cách lọng cọng vì chiếc đò đang tròng trành trên làn nước động. Chờ cho tất cả yên vị, bà lái đò bật máy lên, lái chiếc đò ra giữa dòng. Tuy có đọc tờ “brochure” tả chuyến đi nhưng tôi vẫn chẳng có ý niệm gì về nơi mình đang tới. Miền Tây vẫn còn là nơi xa lạ với tôi vì thuở còn ở Việt Nam không có điều kiện được đi chơi nhiều để thăm viếng những miền đất nước bên ngoài Sài Gòn. Tôi hỏi cô hướng dẫn viên và được cho biết đây là sông Cái Bè và chúng tôi sẽ đi du ngoạn trên sông suốt cả ngày nay, sau đó cặp bến ở Vĩnh Long để gặp lại chiếc xe và anh tài xế, tiếp tục cuộc hành trình. Gió thổi thật mát. Tôi ngồi nhìn hai bên bờ. Tất cả những căn nhà quay ra mặt sông đều trở thành những nơi buôn bán. Đủ loại “bi zi nét”, từ những tiệm máy tức nơi sửa chữa thuyền đò, đến tiệm bán xăng dầu, vựa trái cây, nơi bán cây cảnh... Một điều ngồ ngộ tôi nhận thấy là có vài nơi dùng chữ “cửa hàng” trên tấm bảng hiệu, một chữ Bắc kỳ hoàn toàn, thay vì chữ “tiệm” của Nam kỳ, một dấu hiệu của Nam Bắc đề huề chăng? Quang cảnh trên sông khá tấp nập, mọi người trông thật bận rộn trong công việc của họ. Còn tôi vẩn vơ nhìn mọi người và dòng nước sông cuồn cuộn chảy.
Đò rẽ qua một nhánh sông để đem chúng tôi đến một chợ nổi nho nhỏ. Khoảng hơn chục chiếc thuyền nhỏ quây quần ở đây để trao đổi buôn bán những loại nông sản. Mỗi thuyền đều có một cây cao trước mũi, trên ngọn cột một nhúm loại nông sản họ đang bán, thí dụ như khoai lang, bầu, bí... Cột này gọi là cây chèo bẻo. Chợ trông thật lèo tèo, kẻ bán thì đây, còn người mua chẳng thấy đâu. Cô hướng dẫn viên bảo đây chỉ là chợ nhỏ thôi, mai sẽ đi chợ nổi Cái Răng lớn hơn nhiều.
Khu du lịch miền Tây
Đò vòng trở ra sông lớn để lại ghé vào một nhánh sông khác, viếng một khu du lịch. Đây là một xóm nhỏ nằm ven sông, nay được cải biến thành một “showcase” tức nơi trưng bày về đời sống người dân vùng này. Một khoảng đất lớn được che mái, thoáng và khá mát nhờ những chiếc quạt máy đang làm việc ì xèo. Trời nóng như thiêu đốt nên khoảng không gian này được tất cả mọi người hưởng ứng, nhất là lại được mời những ly trà nóng thơm và những chiếc kẹo dừa, kẹo chuối xinh xinh. Sản phẩm chính được trưng bày nơi đây là nghề làm kẹo chuối, kẹo dừa, cốm, bánh tráng...
Nơi những chiếc bàn thật lớn, mấy cô con gái đang làm kẹo chuối và kẹo dừa. Nhiều bếp lò âm ỉ nung chất đường và chuối với nước cốt dừa thành kẹo, đổ lên chiếc bàn chờ cho khô để rồi được cắt thành những viên kẹo hình chữ nhật và gói vào giấy kiếng. Kỹ thuật làm kẹo coi thật dung dị, chẳng chút mầu mè, chỉ là phối hợp của đường, nước cốt dừa, chuối, gừng, mè... thành một món ăn chơi giản dị, bình dân.
Trên rất nhiều những chiếc bàn thật lớn khác bầy những món hàng để bán cho du khách là kẹo và những sản phẩm thủ công nghệ chế tạo từ cây dừa. Những chiếc muỗng, nĩa, đũa cả, môi múc canh thật lớn, xiên, lược chải tóc... Những món thủ công này khá tinh xảo, làm từ thân cây dừa nên có những vân gỗ lạ rất đẹp. Ngoài nhóm chúng tôi còn rất nhiều nhóm du lịch khác, đa số là Tây. Mấy anh chị hướng dẫn viên giảng bài oang oang. Họ cho biết cây dừa được tận dụng, không bỏ phí chút gì. Trái dừa tươi và khô thì dĩ nhiên là dùng làm thức ăn, xơ dừa phơi khô làm thức chụm, lá dừa để lợp mái, thân dừa được chế biến thành đồ dùng, ngay cả cái gáo dừa cũng dùng để múc nước.
Nơi một góc khu này là chỗ trưng bày kỹ thuật cất rượu đế. Lò lửa nung nước (hay rượu) cho bốc hơi chuyển qua chum đựng.
Trong một ngôi nhà khá lớn ngay sau khu thương mại này, phía một bên chái là cơ ngơi trưng bày nghệ thuật làm bánh tráng. Bên cạnh một lò lửa trên có một nồi nước thật lớn mặt căng tấm vải là một bà tuổi trung niên ngồi tráng bánh. Tay bà thoăn thoắt múc nước bột đổ lên mặt vải. Bà dùng cái môi tráng đều bột rồi đập nắp nồi lại. Độ một phút sau, bà mở nắp, dùng thanh tre vớt cái bánh tráng ra đặt lên giàn phơi. Bà cho biết:
-Tôi tráng bánh cũng hơn 25 năm rồi. Tráng đủ loại bánh tráng hết.
Nét mặt bà vui vẻ, nhẫn nại như chuyện ngồi một chỗ tráng bánh như thế 25 năm là một chuyện tự nhiên nhất trên đời. Ông chồng bà lúc thúc phía sau phụ việc, đem vỉ bánh ra phơi.
4 đứa con của bà, đứa lớn nhất 21 tuổi, con gái, nghỉ học từ khi xong lớp 9 để ở nhà phụ việc. Việc gì? Đó là việc đứng bán bánh tráng cho du khách ngay tại trước cửa nhà. Thực ra, căn nhà bà cũng lớn, nguyên cả cái sân rộng dùng làm chỗ trưng bày nãy giờ tôi nói đến. Tức bà cũng là dân có máu mặt chứ không phải nghèo. Hai đứa con trai thì mới đi học về. Còn con bé út 6, 7 tuổi nhưng cũng đã biết cầm tập bưu thiếp đem đi mời khách. Cả nhà cùng làm việc buôn bán. Cũng đâu khác gì những gia đình di dân trên nước Mỹ thời gian đầu cũng phải xúm vào làm việc để xây dựng tương lai. Có điều thấy rõ chuyện đi học đi hành ở đây chỉ là chuyện phụ, nhất là đối với con gái. Trở lại quan niệm 50, 70 năm về trước: con gái đi học nhiều cũng chẳng để làm gì, thà ở nhà giúp việc, đến tuổi thì đi lấy chồng.
Còn nữa, khu du lịch này trải dài. Bên cạnh là nơi trưng bày công nghệ làm cốm. Trên cái chảo khổng lồ đường kính cả 1 mét là cát đen trộn với hột lúa. Sức nóng từ bếp lò bên dưới làm hột lúa căng phồng nứt khỏi vỏ. Khi tất cả những hạt lúa đã nở ra, chảo lúa trộn cát này được sàng để cát và vỏ lúa rơi đi mất, chỉ còn cốm đem đổ vào thúng. Thúng cốm này được đem qua trộn với nước đường thắng với gừng, sau đó đem đổ lên chiếc khuôn lớn hình chữ nhật ép cho bằng phẳng thành một miếng cốm khổng lồ. Công việc ép miếng cốm khổng lồ này do hai người đàn ông làm, có lẽ vì cần có sức mạnh mới làm nổi. Miếng cốm này được cắt ra thành những miếng nhỏ rồi chuyển qua khu gói ghém. Nơi đây có sẵn mấy người đàn bà cho từng miếng cốm nhỏ vào bao ny lông, cột một sợi dây thun ở đầu. Thế là thành sản phẩm cốm bán với giá 100 đồng một miếng. Thứ quà này thực mới đúng là bình dân. Chẳng thấy ông bà Tây nào mua cốm ăn cả. Chẳng biết cát đen họ dùng nung cốm là chất gì, có còn bám vào hạt cốm hay không? Thêm nữa, những người đàn bà gói cốm chỉ dùng hai bàn tay trần bốc từng miếng cốm rồi bốc vào sợi dây thun, trông không “hạp vệ sinh” cho lắm. Đúng với lời mình thường nghe nói: thấy người ta làm thứ gì rồi thì không dám ăn thứ đó nữa, còn khuất mắt không thấy thì gì cũng ăn tuốt.
Cũng như việc tận dụng cây dừa kể trên, ở đây mới thấy người dân quê Việt Nam đã thực hành từ lâu chuyện “reuse”, “recycle”... Chất đốt lò là vỏ trái nhãn, dăm bào, trấu... Tro thì đem ra bón cây. Có điều là muốn “reuse” như vậy cần rất nhiều nhân công, thứ “nhiên liệu” nước Việt Nam đang có thừa, nhất là ở vùng quê.
Ngoài khu tiểu công nghệ thức ăn như trên, dĩ nhiên là có rất nhiều gian hàng bán đồ kỷ niệm, từ cái nón cối cho tới chiếc áo dài, lọ gốm, tranh ảnh... tất cả đều có mặt. Có lẽ những vật kỷ niệm này thu hút du khách Tây nhiều hơn. Tôi thì vác một mớ những thủ công nghệ làm bằng thân cây dừa về, thực ra thì đem về cũng không biết để làm gì, chắc cũng để cất kỹ giống như mớ đũa đẹp tôi mua ở Việt Nam từ nhiều năm trước hiện vẫn còn nằm trong tủ.
(Còn tiếp)
Ảnh: Vien Dong Daily News
© Vien Dong Daily News
Viết bình luận đầu tiên
MỚI CẬP NHẬT



















ĐỌC THÊM
Cháy lớn nhưng California vẫn là tiểu bang đẹp nhất xứ Mỹ Để với 28 lý do
California vẫn đang vật lộn với các đám cháy rừng hàng năm và hiện đang khó khăn để dập tắt các đám cháy lớn ở Los Angeles, tuy nhiên đây ...
11 sự thật có thể quí vị chưa biết về Lake Tahoe, hồ tự nhiên với độ tinh khiết cửa nước đến 99.994%
Mình may mắn từng có dịp đến hồ Tahoe chơi, phải nói rất đẹp, quang cảnh núi tuyết xung quanh nhìn như Thụy Sĩ vậy, chụp ảnh góc nào cũng ...
"Khe vực ma ám" ở Nhật Bản nơi từng vùi sác của 55 kỹ nữ hoa khôi thời phong kiến Nhật
Thời điểm đó 1570 là Shingen gần chết, lúc đó vừa làm hoà với nhà Uesugi để tiến đánh Tokugawa, ngoài gạo với muối ra thì kim loại, vàng cũng ...