Văn Nghệ

Giã biệt Thi Sĩ Cung Trầm Tưởng - Thơ tình Thơ tù đẹp thấm

Monday, 10/10/2022 - 10:12:07

Từ một chàng thanh niên đến nước Pháp làm thơ tình yêu nồng nàn; rồi sau 1975, vận nước đổi thay, thi sĩ Cung Trầm Tưởng tiếp tục làm thơ trong ngục tù Cộng Sản.


Cung Trầm Tưởng năm 2009 (Lê Anh Dũng/ Dung Le Facebook)

  

Bài TRẦN CHÍ PHÚC

 

Chiều Chủ Nhật, ngày 9 tháng 10, 2022, tại tiểu bang Minnesota, thi sĩ Cung Trầm Tưởng vẫy tay giã từ giới yêu thơ ông sau 90 năm rong chơi cõi đời (1932- 2022); để lại những câu thơ đặc biệt trong vườn thơ Việt Nam. Tên thật của ông Cung Thúc Cần, họ Cung là họ hiếm thấy ở quê hương và bút hiệu là Cung Trầm Tưởng nghe hay hay.

 

Danh tiếng ông vang xa khi hai bài hát Tiễn Em và Mùa Thu Paris do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ thơ Cung Trầm Tưởng do một số ca sĩ hát đầu thập niên 1960 được giới yêu thơ nhạc Miền Nam thời đó yêu thích. Năm 1952, lúc đó 20 tuổi, thanh niên họ Cung du học nước Pháp ở Paris và có cảm tình với người con gái bản xứ. Những cảm xúc thời sinh viên đó trải vào bài thơ Mùa Thu Paris và Chưa Bao Giờ Buồn Thế (Phạm Duy đổi thành Tiễn Em khi phổ nhạc).

 

Cũng là thơ tình chia ly nhưng bối cảnh là kinh đô hoa lệ Paris và người yêu là cô gái Pháp tóc vàng mắt nâu là nét mới mẻ trong dòng thi ca của Sài Gòn đầu thập niên 1960. Cho nên khi hai nhạc phẩm này xuất hiện được nhiều người yêu thích, nhờ tài phổ nhạc của Phạm Duy và những ca sĩ nổi tiếng thời đó trình diễn. Thử nghe và đọc lại mấy vần thơ “Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế, trời mùa đông Paris suốt đời làm chia ly”; “ Mùa thu Paris, trời buốt ra đi, hẹn em quán nhỏ, rưng rưng rượu đỏ tràn ly... Mùa thu nơi đâu, người em mắt nâu, tóc vàng sợi nhỏ, mong em chín đỏ trái sầu.”

 

Mùa thu lá vàng Paris đẹp, mùa đông tuyết phủ ga tàu Lyon ở ngoại quốc nhưng qua dòng thơ Cung Trầm Tưởng, câu nhạc Phạm Duy và những tiếng hát ngọt ngào thủ đô Sài Gòn thì trở thành bài hát rất tình tự, gần gũi với người nghe ở quê nhà. Sau gần 70 năm, hai ca khúc này vẫn còn rung động thính giả.

 

Nhạc sĩ Phạm Duy không phổ nguyên bài thơ, ông sửa đổi, cắt xén và đôi lúc đặt thêm ca từ cho thích hợp với câu nhạc của bài hát. Bài hát phổ thơ phải có giai điệu, phải có câu nhạc (melody) để dễ nhớ dễ hát. Nó khác với Hát Thơ mà thời hiện đại có người khi làm công việc phổ thơ, đã gắn những nốt nhạc vào từng chữ thơ một cách phi nghệ thuật, khiến bài hát trở nên khô cứng, giai điệu kém quyến rũ và tầm thường hóa công việc phổ nhạc từ thơ.

 

Nhắc tới bài hát Tiễn Em thì cách đây nhiều năm, người viết hỏi nhạc sĩ Phạm Duy rằng trong nhạc phẩm Tiễn Em có câu “Nơi em có trăng soi, anh một mình ở lại...” nếu hát câu nhạc giống như “ Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế..” thì chữ “lại” trở thành chữ “lái”. Cho nên nhiều ca sĩ đã phải sửa chữ “ở lại” thành “thương nhớ”, “rét giá”. Và Phạm Duy trả lời rằng, đúng ra chữ “ lại” thay vì hát nốt Đố thì phải luyến láy gồm 3 nốt Mi Sol Đố, diễn tả giống như tiếng nấc nghẹn ngào của chàng trai tiễn biệt người yêu.

 

Vì hai bài hát phổ thơ Cung Trầm Tưởng là Tiễn Em và Mùa Thu Paris quá nổi tiếng cho nên nhiều người không chú ý đến những bài thơ lục bát đặc sắc của ông trong tập thơ Tình Ca xuất bản năm 1959 như Kiếp Sau: “Bù em một thoáng trời gần. Đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi. Bù em góp núi chung đồi. Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ... Non sông bóng mẹ sầu u. Mòn trông ngưỡng cửa chiều lu mái sầu.” Chữ “ bù”, “sầu u”, “chiều lu” nghe lạ mà hay.

 

Sau khi Sài Gòn thất thủ tháng 4 năm 1975, thi sĩ Cung Trầm Tưởng bị tù Cộng Sản 10 năm và năm 1993 ông mới đến được Hoa Kỳ. Trong thời gian ở tù, không có giấy bút nhưng ông làm nhiều bài thơ, đọc cho bạn tù nghe và nhờ họ ghi nhớ trong đầu để mai này ra tù mà phổ biến cho đời.

 

Hai tập thơ Níu Lấy Quan Tài và Lời Viết Hai Tay được coi là Tù Sử Thi, ghi lại một quãng đời gian khổ ngục tù của ông ở Hoàng Liên Sơn năm 1977. Mời đọc mấy dòng thơ trong bài Vạn Vạn Lý: “Chấn song đan u ám. Sần sùi nhớp nhúa đen. Ran ran nhạc dế mèn. Nhởn nhơ cười chẫu chuộc... Vỗ vỗ rơi tàn thuốc. Phà khói vào hơi sương. Xa xưa trống lên đường. Tiếng quân hô hào sảng... Mưa về gióng lê thê. Nai kêu nguồn đâu đó. Xưa nay tù ngục đỏ. Mấy ai đã trở về?”

 

Hoặc mấy dòng lục bát “Áo tù thẫm máu đôi vai. Hai chân chém nứa vành tai gió lùa. Ngó tay bỗng thấy già nua. Cứa em thân xác mấy mùa thu qua. Môi cằn má hóp thịt da. Ngô vơi miệng chén canh pha nước bùn. Đêm nằm rỗng ruột vai run. Đầu kề tiếng súng chân đùn bóng đêm...”

 

Từ một chàng thanh niên đến nước Pháp du học văn minh Tây phương, làm thơ tình yêu nồng nàn; rồi trở về nước làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, rồi sau 30 tháng 4 năm 1975, vận nước đổi thay, thi sĩ Cung Trầm Tưởng tiếp tục làm thơ trong ngục tù Cộng Sản.

 

Dòng thơ ông sau này đổi khác như ông đã từng nói rằng cám ơn lịch sử đã giăng cái bẫy bắt ông mười năm ở tù để thơ ông mở ra, có hệ lụy và có trách nhiệm; rằng khi dân tộc rướm máu thì thi sĩ phải đổ máu, phải đảm nhận sự đau khổ của dân tộc, tạo ra ngôn ngữ- ngôn ngữ của đau khổ...

 

Những dòng thơ tù của Cung Trầm Tưởng là nét rất riêng như cuộc đời thăng trầm của ông, tả nỗi đau của dân tộc trong một quãng lịch sử trầm luân, nỗi đau của những gia đình ly tán vì thời thế đổi thay trong đó có gia đình ông. Dòng thơ tình và dòng thơ tù và tạo nên một hành trình thơ 60 năm, đẹp, thấm, của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, nét chất ngất tình yêu cùng nét đớn đau lịch sử.

 

Giã biệt thi sĩ Cung Trầm Tưởng, 90 năm cõi nhân sinh cũng đủ cho ông suy gẫm vận nước. Mỗi người chúng ta sống trong một khoảng năm tháng ngắn so với dòng sinh mệnh của dân tộc. Vườn thi ca Việt Nam có đóa hoa đẹp mang tên ông. Giã biệt ông, xin hát câu “Lên xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế ”!

 

 

Viết bình luận đầu tiên

MỚI CẬP NHẬT